TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA DU LỊCH ĐẾN KINH TẾ
Ngành Du lịch bao gồm du lịch nội địa, du lịch quốc tế chủ động (Outbound), du lịch quốc tế thụ động (inbound). Cả ba lĩnh vực này đều có những mặt tác động tích cực đến kinh tế như sau:
- Du lịch tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân (kích thích sản xuất tiêu dùng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật của ngành du lịch nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung giúp hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế của đất nước …), tăng nguồn thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong sự cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
- Du lịch làm tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương phát triển du lịch, tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân và phân phối lại thu nhập quốc dân giữa các vùng. Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn. Ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các du khách đến tham quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu.
- Du lịch thúc đẩy các ngành kinh tế khác vì du lịch cần nhiều sự hỗ trợ liên ngành như xây dựng, in ấn và xuất bản, sản xuất, bảo hiểm, vận tải, lưu trú, bán lẻ, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tài chính. Nhờ có du lịch mà dịch vụ ăn uống, dịch vụ vui chơi giải trí… có điều kiện phát triển, tạo ra hàng nghìn việc làm mỗi năm. góp phần tăng cao tỉ lệ lao động có việc làm, nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
- Du lịch góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội . Du lịch nâng cao hiểu biết, học hỏi kỹ thuật mới, củng cố sức khỏe, tinh thần của người dân. đem lại hiệu quả, sáng tạo trong lao động cao hơn.
- Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất. Du lịch góp phần “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, nông lâm sản… với giá bán lẻ cao hơn và người bán sẽ không tốn chi phí vận chuyển, bảo hiểm, thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp cần khả năng thanh toán. “Kim ngạch” của ngành này mang lại chính là doanh thu hàng hoá và dịch vụ mà du khách sử dụng khi đến Việt Nam.
+ Năm 2000, Việt Nam đã thực hiện xuất khẩu tại chỗ ước gần 800 triệu USD, tăng khoảng 150 triệu USD. Con số này trong năm 2004 là 1.6 tỷ USD, tăng khoảng gần 25.000 tỷ. Do đó, hoạt động du lịch được đẩy mạnh sẽ đem lại một hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế.
- Du lịch góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam tới những nhà đầu tư tiềm năng. khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, các hình thức liên doanh, liên kết với các nước ngoài trong kinh doanh du lịch cũng đã đem lại lợi nhuận kinh tế cao.
Tại khu vực miền Trung, tập đoàn Banyan Tree (Singapo) đã nhận giấy phép đầu tư 276 triệu USD xây dựng khách sạn 5 sao, nhà hàng, sân golf tại khu kinh tế Chân Mây ( Thừa Thiên Huế);
Hầu hết các khách sạn 5 sao ở Hà Nội đều là kết quả của hoạt động liên kết giữa Việt Nam với một số nước châu Á. Ví dụ như : Khách sạn Sofitel Metropole là liên kết giữa Việt Nam và Singapo, Sheraton là của Việt Nam và Indonexia, Sofitel plaza là liên kết giữa Việt Nam và Malaysia, Melia Hà Nội là liên kết giữa Việt Nam và Thái Lan.
- Du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dịch vụ.
Nhiều gia đình dân tộc nghèo khó trước kia chỉ sống bằng nông nghiệp nay đã được cải thiện đời sống nhờ du lịch. như ở bản Lác, một bản của người dân tộc Thái ở Mai Châu – Hòa Bình. Từ một làng dân tộc bình thường, do nhận thấy tiềm năng và có định hướng phát triển đúng đắn nên giờ đây bản Lác và một số bản xung quanh đã trở thành làng du lịch. Đời sống dân bản được nâng cao, giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn người lao động tại đây. Khách du lịch đến đây được sống trong nhà sàn, ăn thịt thú rừng, học cách dệt vải của người Thái… nét văn hóa truyền thống không chỉ được lưu giữ, bảo tồn mà còn được giới thiệu cả trong và ngoài nước.
- Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. tạo nên sự phát triển đường lối giao thông quốc tế
Việt Nam đã ký 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước, có quan hệ bạn hàng với 800 hãng của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ. Nước ta đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN, trở thành thành viên chính thức của hiệp hội Du lịch Đông Nam á (ASEANTA); khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với liên bang Nga; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với Pháp; bước đầu xây dựng quan hệ hợp tác du lịch với Hoa Kỳ.
Một ngành kinh tế lớn, ngành du lịch, có liên quan trực tiếp tới văn hóa. Những di sản văn hóa trên lãnh thổ một quốc gia là một chủ bài lớn để thu hút du khách nước ngoài, và từ đó nảy nở những mối giao thương khác. Mặt khác, khi bạn bè hay đối tác nước ngoài tới tìm hiểu đất nước ta, tìm hiểu con người, xã hội và các cơ hội làm ăn với Việt Nam, dĩ nhiên điều tối thiểu là họ phải được tiếp đón với những chuẩn mực văn minh hiện đại. Nhưng như thế chưa đủ
Nhóm famtrip caravan tại rừng Kong forest Khánh Hòa thàng 4-2021
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA DU LỊCH ĐẾN KINH TẾ
Bên cạnh các lợi ích to lớn của du lịch đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta thì du lịch vẫn còn tồn tại những điểm tiêu cực như:
2.1. Phát triển du lịch quá mức dẫn đến việc làm mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế, làm mất giá đồng tiền, nguy cơ lạm phát, Chảy máu ngoại tệ, dẫn tới sự lệ thuộc kinh tế của cộng đồng dân cư vào du lịch.
+ sự tăng giá hàng tiêu dùng, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của dân cư, việc phát triển du lịch kéo theo giá cả gia tăng 8% (nghiên cứu của trường Đại học San Francisco (Mỹ), chi phí xây dựng và tăng giá trị đất đai.
ở Mandive có 83% dân cư sống phụ thuộc vào du lịch, các khu du lịch ở các địa phương có thể bị phá huỷ do tác động của thiên tai, chiến tranh,… Khi đó kinh tế địa phương sẽ bị phá hoại.
Một số khu vực du lịch được tập trung đầu tư phát triển một cách biệt lập với các khu vực khác trong cả nước làm xuất hiện những chênh lệch về kinh tế và trình độ phát triển giữa các vùng.
2.2. Ngành du lịch là ngành có phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc đảm bảo doanh thu và phát triển ổn định của ngành du lịch là khó khăn hơn so với các ngành sản xuất khác. Hoạt động du lịch rất nhạy cảm với nhiều nhân tố tác động nằm ngoài sự kiểm soát của các nhà kinh doanh (kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, pháp luật, điều kiện tự nhiên, thiên tai dịch bệnh, dịch Covid-19….)
2.3. Tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong một số ngành. Sự phát triển du lịch thiếu quy hoạch hoặc quy hoạch không đồng bộ có thể gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững của địa phương.
2.4. Các hoạt động du lịch có thể gây suy giảm các nguồn lợi kinh tế của địa phương, gây sức ép ngày càng cao đối với hạ tầng cơ sở (sử dụng nhiéu điện, nước, nhiên liệu, làm tăng lượng nước thải và chất thải); tăng chi phí cho hoạt động của công an, cứu hỏa, dịch vụ y tế, sửa chữa, bảo trì hộ thống đường giao thông và các dịch vụ công khác.
2.5. Du lịch gây ra một số tệ nạn xã hội do kinh doanh các loại hình không lành mạnh
việc tranh dành, lôi kéo khách hay những hoạt động buôn bán tại các lễ hội, các hình thức vui chơi có thưởng với mục đích lừa đảo hay kinh doanh cá loại hình không lành mạnh trong nhà hàng khách sạn….
Du lịch phải đem lại lợi ích cho các cộng đồng chủ nhà và tạo động lực để chăm nom và duy trì di sản và các tập tục văn hoá của họ. Sự tham gia và hợp tác giữa các cộng đồng địa phương và các ban ngành du lịch là cần thiết để thực hiện được một ngành kinh doanh du lịch bền vững và nâng cao việc bảo vệ các nguồn lực của di sản cho các thế hệ tương lai.